Những lời tiên tri trong “Thôi Bối Đồ” và “Kinh Thánh” – hai cuốn sách được đón đọc nhiều nhất tại phương Đông và phương Tây, đều có cùng một mục đích, chính là khải thị cho nhân loại về những thảm họa, cũng như sự cứu rỗi trong kiếp nạn đương thời, đặc biệt là đại kiếp nạn ôn dịch.
Phần này, chúng ta sẽ cùng phá giải “điểm tựa thời – không” (thời gian và không gian) trong “Kinh Thánh – Khải Huyền”, thông qua ẩn đố “Người phụ nữ sinh con, mặc áo Mặt Trời, chân đạp Mặt Trăng, đầu đội vương miện kết bằng 12 tinh tú”. “Người phụ nữ” này không phải là Đức Maria, Giáo hội, hay Israel như Wikipedia đề cập, mà là chỉ chòm sao Xử Nữ, cùng với đó là một thiên tượng độc nhất trong 100 triệu năm trước cũng như 100 triệu năm sau.
“Thôi Bối Đồ” được biên soạn bởi Lý Thuần Phong – một nhà thiên văn học và thiên tượng học vào những năm đầu triều đại nhà Đường (theo “Thỉnh sử’). Vào thời Bắc Tống, “Thôi Bối Đồ” phổ biến đến nỗi nhà nhà đều có. Nó dự đoán về các sự kiện lịch sử lớn từ đầu triều đại nhà Đường tới hiện tại và cả tương lai, cho đến nay không tiên đoán nào là không ứng nghiệm. Trong khi, ‘Cựu ước’ của “Kinh Thánh” ghi lại nguồn gốc, sự phát triển và kiếp nạn của Do Thái giáo, tiên đoán Chúa Giêsu sẽ hạ thế độ nhân, và đến thời mạt thế thì Đấng Mê-si (Đấng Cứu Thế) sẽ đến cứu nhân loại; ‘Tân Ước’ là bản ghi chép của các Tông Đồ truyền giáo Cơ Đốc về cuộc đời rao giảng (truyền pháp) của Chúa Giêsu.
“Khải Huyền” – phần cuối cùng trong ‘Tân Ước’ là lời khải thị về cuộc bức hại đối với Đấng Cứu Thế và các Thánh Đồ của Ngài trong những ngày cuối cùng, cũng như đại đào thải (đại kiếp nạn, đại thảm họa) và sự cứu rỗi nhân loại. Trong đó, lời khải thị về “Người phụ nữ” được đề cập trong chương 12 “Người Phụ Nữ và Con Rồng”.
1. “Xử Nữ sinh con”, thiên tượng định thời
Dưới đây là trích dẫn lời tiên tri trong “Khải Huyền”:
“Khải huyền 12: Người Phụ Nữ và Con Rồng
1 Tôi chứng kiến một dấu lạ vĩ đại diễn ra trên trời. Tôi thấy một người phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội vương miện kết bằng mười hai tinh tú. 2 Nàng có thai, kêu la, quặn thắt vì sắp đến giờ sinh nở.
3 Kế đến, tôi chứng kiến một dấu lạ vĩ đại khác. Tôi thấy một con rồng đỏ thật lớn xuất hiện, nó có bảy đầu, mười sừng, mỗi đầu đội một vương miện. 4 Đuôi rồng kéo theo một phần ba tinh tú trên trời quăng xuống đất. Rồng đứng trước mặt người phụ nữ sắp sinh nở, chực nuốt đứa bé khi vừa ra đời.
5 Nàng sinh một con trai. Con trai ấy sẽ dùng cây trượng sắt cai trị mọi dân tộc, và sẽ được đưa lên ngai Đức Chúa Trời. 6 Còn người đàn bà chạy trốn vào hoang mạc, nơi Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho nàng. Nàng được nuôi dưỡng 1.260 ngày tại đây.”
Đây là một lời tiên tri vô cùng trọng yếu, bởi vì nó liên quan đến đại đào thải thời mạt kiếp của loài người – “Bảy Phong Ấn – Bảy tai họa”, cùng với “Trời mới Đất mới” – thời khắc canh tân vũ trụ. Trong suốt 2.000 năm, những tín đồ Cơ đốc giáo và sử gia đã muốn giải mã nó, đặc biệt là thời nay, nhưng ẩn đố vẫn chưa được phá giải. Mọi người đều đã biết “Khải Huyền” sử dụng lối viết ẩn dụ tượng trưng, nhưng người phụ nữ, con rồng, đại dâm phụ, Babylon, Sô-lô-khốp, Ai Cập, Giê-ru-sa-lem… là tượng trưng cho cái gì trong tương lai? Những thiên tượng nào sẽ là điểm tựa giúp phá giải ẩn đố?
“Người phụ nữ” là chỉ chòm sao Xứ Nữ (xem “Hình 1”). Xứ Nữ từ lâu đã bị dịch sai thành “Xử Nữ”, vì vậy nó được gọi là Xử Nữ trong “Bói toán chiêm tinh”. Chiêm tinh và thiên tượng học là hai thứ khác nhau, chiêm tinh là xem bói, còn thiên tượng học là có thể triển hiện ra đạo trời.
“Mang thai và sinh con” là chỉ sự vận hành của sao Mộc, ở bụng dưới của Xử Nữ, “Rơi vào bụng dưới và đầu thai (28/12/2016 tiến vào Sao Giác) – đi thuận xuống – lưu lại (rồi chuyển hướng vào ngày 6/2/2017) – đi ngược lên – lưu lại (rồi chuyển hướng vào ngày 10/6/2017) – lại đi thuận xuống rồi ra đời vào ngày 24/9/2017 (xem “Hình 1” – bên phải). Thời gian vận hành là gần 10 tháng, giống như quá trình mang thai và sinh nở của một người phụ nữ.
Người phụ nữ “mặc áo Mặt Trời, chân đạp Mặt Trăng” (xem Hình 1), có nghĩa là Mặt Trời ở trên vai Xử Nữ và Mặt Trăng ở dưới chân Xử Nữ. Vị trí của các vì sao cho biết thời gian, cho nên, thời gian Xứ Nữ sinh con chính xác là vào ngày 24/9/2017, khoảng từ 0 – 10 giờ (múi giờ UTC+08:00), quá khoảng thời gian này, thì Mặt Trăng sẽ chạy ra khỏi vị trí “dưới chân” Xứ Nữ rồi vào trong chòm sao Thiên Bình.
Người phụ nữ “đầu đội vương miện kết bằng 12 tinh tú” (xem Hình 1 – bên phải), vào thời điểm này, có 12 tinh tú (ngôi sao) trên đầu của Xứ Nữ, tạo thành hình vương miện.
Về độ sáng của các ngôi sao, thiên văn học chia theo “độ sáng biểu kiến (apparent magnitude)”, thước đo độ sáng khi quan sát từ Trái Đất, giá trị được tiêu chuẩn khi không có ảnh hưởng của không khí. Thiên thể càng sáng thì giá trị độ sáng của nó càng nhỏ. Trong đó, Mặt trời có độ sáng -26,7 (giá trị âm), trăng tròn (trăng rằm) có độ sáng -12,6 và sao Kim có độ sáng -4,9 khi sáng nhất v.v. Theo đó, bầu trời có 21 ngôi sao hạng nhất, 46 ngôi sao hạng hai, 134 ngôi sao hạng ba, 458 ngôi sao hạng tư, 1476 ngôi sao hạng năm và 4.840 ngôi sao hạng sáu. Độ sáng của ngôi sao hạng nhất gấp khoảng 100 lần độ sáng của ngôi sao hạng 6, và độ sáng của các ngôi sao từ hạng 6 trở xuống về cơ bản là không thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Một số độc giả có thể sẽ thắc mắc: Thiên tượng là tuần hoàn, thì tại sao nhất định phải là ngày 24/9/2017? Trong quá khứ hay tương lai, có thể vẫn tồn tại một thời điểm khác trùng khớp với thiên tượng “Xứ Nữ sinh con” trong bức ảnh trên chứ?
2. “Xứ Nữ sinh con” và chu kỳ của sao Mộc
Vào thời cổ đại, sao Mộc được gọi là Tuế Tinh, ngoài 28 chòm sao trong thiên văn học cổ đại Trung Quốc, thì các vì sao trên bầu trời còn được chia đều thành 12 “tinh thứ”. Sao mộc khoảng 12 năm quay hết một vòng, khoảng một năm thì đi qua một “tinh thứ”, cho nên nó mới được gọi là Tuế Tinh (mỗi năm quay 1/12 vòng, 12 năm quay hết một vòng, vì vậy người xưa coi vị trí sao Mộc là tiêu chuẩn để tính năm).
Trong thiên tượng học, chu kỳ của các ngôi sao có ý nghĩa không lớn, nhưng chu kỳ lưu trú lại có ý nghĩa lớn. Sao Mộc lưu trú với chu kỳ khoảng 344 năm.
Nói cách khác, cứ sau 344 năm, vị trí lưu trú của Sao Mộc về cơ bản sẽ trở lại vị trí ban đầu. Mặc dù vào năm 1673, nó cũng đã hình thành hình dáng của “Xứ Nữ sinh con” nhưng trên đầu Mộc tinh chỉ có 4 ngôi sao sáng hạng 3 trở lên và 6 ngôi sao sáng hạng 4, cho nên đã không tạo thành vương miện. Ngoài ra, vị trí của Mặt Trăng và Mặt Trời cũng chênh lệch rất lớn.
Có người lại thắc mắc: Liệu thiên tượng “Xử Nữ sinh con” có ứng với năm trước và sau khi chúa Jesus ra đời không?
Câu trả lời là không. Từ năm 30 trước Công nguyên đến năm 30 sau Công nguyên, sao Mộc không xảy ra thiên tượng như vậy. Mặc dù có một hiện tượng đáng chú ý diễn ra vào ngày 1/9/48 trước Công nguyên, nhưng vị trí của Mặt Trời, sao Thủy và sao Hỏa rất khác với những mô tả trong lời tiên tri. Và như đã nói trước đó, Xử Nữ là một phiên âm sai và nên được gọi là Xứ Nữ, vì vậy không nên dùng thiên tượng này để gán ghép vào sự kiện Chúa Giê-su giáng sinh.
Thiên tượng “Xứ Nữ sinh con” với mô tả rằng, người phụ nữ “Mặc áo Mặt Trời, chân đạp Mặt Trăng, đầu đội vương miện 12 tinh tú (hai ngôi sao tụ vào)”, đây là những điều kiện hết sức khắt khe (hình dạng của chòm sao đã thay đổi quá lâu). Thêm nữa, căn cứ vào quỹ đạo của các hành tinh, không chỉ hơn 5.000 năm lịch sử, mà 100 triệu năm trước và 100 triệu năm sau, cũng chỉ có quỹ đạo duy nhất của Sao Mộc vào năm 2017 là phù hợp với thiên tượng này. Do đó, thời gian mà “Khải Huyền” tiên đoán chính là ngày 24/9/2017.
3. Lịch [pháp] đặc biệt, hướng về Trung quốc
“Mặc áo Mặt Trời, chân đạp Mặt Trăng”, lời tiên đoán này ẩn chứa lịch pháp. Lịch pháp của văn minh Trái đất cổ đại có thể chia thành ba loại: Lịch âm, lịch dương và lịch âm dương.
Lịch dương: Lấy Mặt Trời định năm, không xét tới thiên tượng
Lịch dương sử dụng Mặt Trời để xác định năm, 365 ngày một năm, với các năm nhuận xen kẽ, giống như lịch phương Tây hiện nay. Vào cùng một ngày trong năm, Mặt Trời lại quay về vị trí gần như cũ.
Bởi vì lịch dương không xét đến chu kỳ của Mặt Trăng, cho nên không thể quan sát sự tròn khuyết của Mặt Trăng và nó không thể hiển thị trực tiếp thiên tượng được. Nhưng nó lại đơn giản và thuận tiện, nên phổ biến khắp thế giới.
Lịch âm: Xem ánh trăng định năm, cũng không xét thiên tượng
Lịch âm không xét đến Mặt Trời, mà dựa vào hình dáng chu kỳ trăng để xác định năm, tháng. Một tháng có 29 hoặc 30 ngày, các tuần trăng đều giống nhau, 12 tháng một năm, như vậy một năm có khoảng 354 ngày.
Bởi vì Mặt Trời không được xét đến, nên vị trí của Mặt Trời không có trong lịch âm, tức là không thể hiện được thiên tượng.
Lịch âm dương, xét đến cả Mặt Trăng và Mặt Trời
Lịch âm dương kết hợp không chỉ phản ánh vị trí của Mặt Trời, mà còn cho biết vị trí và hình dáng của Mặt Trăng.
(1) Lịch âm dương đơn giản
Tại một số quốc gia Hồi giáo, lịch Hijri truyền thống và lịch dương được sử dụng song song, có thể xem cả lịch dương và lịch âm theo ngày. Mặc dù vị trí gần đúng của Mặt Trời và Mặt Trăng có thể được thể hiện theo cách này, nhưng thiên tượng lại không được chính xác.
(2) Lịch âm dương của người Do Thái
Lịch Do Thái là lịch âm dương với 7 năm nhuận được chèn vào mỗi 19 năm. Nó giống như lịch truyền thống của Trung Quốc, nhưng lịch Do Thái là dựa trên các tín điều tôn giáo, cho nên có thể được điều chỉnh theo tín ngưỡng (chẳng hạn như để đảm bảo ngày lễ mà sửa đổi năm thành dài ngắn), chứ không để lịch pháp căn cứ theo thiên tượng mà biến đổi. Cho nên nó cũng không cách nào thể hiện chính xác thiên tượng được.
Hơn nữa, vì lịch của người Hijri và Do Thái luôn đặt ngày đầu tiên xuất hiện trăng lưỡi liềm là ngày mồng một (tương đương với ngày mồng hai trong lịch Trung Quốc), vậy nên nhật thực sẽ xảy ra vào ngày 29 hoặc 30 âm lịch của họ. Hơn nữa, họ bắt đầu mỗi ngày vào thời điểm mặt trời lặn, và thời gian mặt trời lặn thì thay đổi hàng ngày, vì thế thời gian bắt đầu của mỗi ngày trong lịch Hijri không cố định (mỗi lần mặt trời lặn cách nhau không phải 24 giờ). Như vậy lịch pháp như thế này thì khó biểu đạt thiên tượng.
(3) Hán lịch Trung quốc: Thiên nhân hợp nhất, phù hợp với thiên tượng
Lịch truyền thống của Trung Quốc, lịch âm là tên thường gọi, nhưng thực ra lịch âm là cách nói chưa chính xác, vì nó là lịch âm dương kết hợp, cho nên gọi Hán lịch thì thích hợp hơn.
Hán lịch đồng thời xem xét các vị trí của Mặt Trời và Mặt Trăng. Có 29 hoặc 30 ngày theo tuần trăng mỗi tháng, mỗi năm 12 tháng, 7 tháng nhuận được chèn vào cứ sau 19 năm, và sự sắp xếp hàng tháng dựa trên 24 tiết khí (ví dụ Lập Xuân, Thanh Minh, Đông Chí v.v.). Vì vậy, 12 tháng thông thường trong Hán lịch là khoảng 354 ngày, và năm nhuận là khoảng 384 ngày với 13 tháng, có sự chênh lệch lớn như vậy về số ngày giữa năm nhuận và năm thông thường là có chính xác không?
Là chính xác, bởi vì vị trí của Mặt Trời trong lịch Trung Quốc chính xác hơn. Chúng ta biết rằng, Lễ Thanh Minh thường diễn ra vào ngày 5/4 theo dương lịch, một số vào ngày 4/4 và hiếm khi vào ngày 6/4. Tại sao lại có sự khác biệt này? Bởi vì vị trí của Mặt Trời không chính xác lắm trong dương lịch, nhưng nó đơn giản hơn Hán lịch; Còn 24 tiết khí (24 điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, mỗi điểm cách nhau 15°) trong Hán lịch (chẳng hạn như Thanh minh) có giờ, phút và giây chính xác, và hiển thị chính xác vị trí của Mặt Trời để hướng dẫn trồng trọt, trên hợp thiên tượng, dưới hợp vạn vật, khí hậu, bởi vì Hán lịch vô cùng chuẩn xác cho nên phức tạp hơn.
Tại Trung Quốc hiện nay, lịch dương phổ quát được du nhập từ thời Trung Hoa Dân Quốc, dùng song song với lịch truyền thống của Trung Quốc. Bằng cách này, nó không chỉ tận dụng được sự giản lược của lịch phương Tây, mà còn thể hiện được điểm mạnh của lịch Trung Quốc – xác minh chính xác chu kỳ và vị trí của Mặt Trăng, đồng thời có thể hiển chính xác hiện tượng thiên văn: Ví dụ, nhật thực luôn xảy ra vào ngày mồng một (một số ít nhật thực cổ đại không xảy ra vào ngày mồng một, vì sự sai lệch trong cách xây dựng lịch và không được điều chỉnh theo hiện tượng thiên văn), nguyệt thực luôn xảy ra vào khoảng ngày mười lăm, v.v.
Có thể thấy rằng, về lời khải thị “Người phụ nữ mặc áo Mặt Trời, chân đạp Mặt Trăng, đầu đội vương miện kết bằng 12 tinh tú” trong “Khải Huyền”:
- Yêu cầu độ chính xác về thời gian, có xét đến Mặt Trời và Mặt Trăng, thì chỉ có Hán lịch truyền thống của Trung Quốc cổ đại – lịch âm dương là phù hợp.
- Hiển thị ngắn gọn và trực quan hiện tượng thiên văn, chỉ có thể đạt được khi dùng lịch Trung Quốc hiện hành, tức là kết hợp lịch dương và Hán lịch.
- Đây là một ẩn dụ để chỉ các hiện tượng thiên văn, và chỉ có Trung Quốc mới được thừa hưởng một hệ thống văn hóa thiên văn có hệ thống và chính xác.
Như vậy, lời tiên tri trong “Khải Huyền” chính là hướng về Trung Quốc hiện nay. Từ đó, chúng ta có thể nhìn ra những sự kiện cuối cùng của nhân loại được ghi lại trong “Khải Huyền”: Đại kiếp nạn, đại chiến chính – tà, Trời mới đất mới, đang và sắp xảy ra tại Trung Quốc, và tất cả các danh từ nước ngoài đều là ẩn dụ tượng trưng. Các học giả “Kinh Thánh” qua nhiều thế hệ đều biết rằng, sách “Khải Huyền” sử dụng cách viết tượng trưng, địa điểm cũng là mang tính biểu tượng, dựa vào ý nghĩa bề mặt của câu chữ thì là liên quan đến châu Á và Israel, cũng có thể hiểu đó là lục địa châu Âu, tuy nhiên Trung Quốc lại bị bỏ qua.
Có rất nhiều nhà tiên tri trong lịch sử Trung Quốc đã lưu lại nhiều dự ngôn để cảnh báo hậu thế, nếu lời tiên tri trọng đại này trong “Kinh Thánh” là hướng đến Trung Quốc, thì tất sẽ trùng khớp với những lời tiên tri kinh điển từ Trung Quốc cổ đại. Như vậy, nếu thay thế thiên tượng “Xứ Nữ sinh con” bằng thiên tượng trong bối cảnh văn hóa Trung Quốc, thì dựa vào đại tiên tri “Thôi Bối Đồ” liệu có tìm được lời giải tương tự? (còn tiếp)
https://tinhhoa.net/