Lực lượng Taliban hôm qua, 15/08/2021, chính thức tuyên bố cuộc chiến Afghanistan đã kết thúc, sau khi chiến binh của họ tràn ngập thủ đô Kabul, tiến vào dinh tổng thống một cách dễ dàng. Trước làn sóng Taliban, quân đội hầu như không kháng cự. Trong khi đó, quân đội Mỹ đang kiểm soát sân bay quốc tế của Kabul, trong khi những người dân tuyệt vọng đang cố gắng chạy khỏi thành phố sau khi Taliban trở lại Kabul.
Người Afghanistan xếp hàng dài chờ hàng giờ tại văn phòng hộ chiếu ngày 14 tháng 8 năm 2021 tại Kabul
Quân đội Mỹ đã đảm bảo an ninh cho khu vực này và đang kiểm soát không lưu để sơ tán nhân viên Mỹ và đồng minh.
Nhưng các chuyến bay thương mại hầu hết đã bị hoãn, khiến hàng trăm người Afghanistan và các công dân nước ngoài khác bị mắc kẹt.
Đến tối ngày Chủ nhật 15/8, lực lượng nổi dậy của Taliban đã tiến vào thủ đô Kabul và Tổng thống Ashraf Ghani đã chạy khỏi Afghanistan.
Trong bối cảnh chính phủ Afghanistan sụp đổ chóng vánh, các nhà quan sát một lần nữa nhắc lại những ngày cuối Chiến tranh Việt Nam năm 1975.
Quân đội Mỹ bắt đầu rút khỏi Afghanistan theo thỏa thuận từ ngày 1/5. Đáng kinh ngạc khi biết rằng cho tới ngày đó, chính phủ Afghanistan còn đang kiểm soát…toàn bộ 34 thủ phủ cấp tỉnh, và Taliban chưa chiếm được thủ phủ nào.
Từ ngày 3/5, Taliban bắt đầu mở cuộc tấn công, ban đầu đánh tỉnh Helmand.
Đến ngày 6/8, Zaranj là thủ phủ tỉnh đầu tiên lọt vào tay Taliban.
Sự sụp đổ nhanh chóng bắt đầu từ đó, với Taliban chiếm được năm thủ phủ trong vòng 48 tiếng.
Thủ phủ các tỉnh bắt đầu rơi liên tục như quân cờ domino chỉ trong vài ngày.
Hai thành phố lớn thứ ba và thứ hai, Herat và Kandahar, rơi vào tay Taliban ngày 12/8. Qalat, thủ phủ tỉnh Zabul, là thành phố thứ 18 đầu hàng ngày 13/8.
Jalalabad, thành phố lớn cuối cùng sau thủ đô, bị chiếm ngày 15/8.
Cùng ngày, Taliban bao vây rồi tiến vào thủ đô Kabul. Các hãng tin quốc tế lúc này nói Tổng thống Ashraf Ghani đã bỏ chạy.
Nhiều nhà bình luận đang so sánh Afghanistan với sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Việt Nam Cộng hòa khi Hà Nội mở Chiến dịch mùa xuân năm 1975.
Một chiến binh Taliban ngồi bên trong xe dọc theo vệ đường ở tỉnh Laghman vào ngày 15 tháng 8 năm 2021
Ngoại trưởng Mỹ bác bỏ so sánh
Còn Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken hôm Chủ nhật khẳng định rằng tình hình xấu đi ở Afghanistan “không phải là Sài Gòn”.
Người dẫn của CNN, Jake Tapper, hỏi Blinken rằng liệu chính quyền Biden có ở trong “khoảnh khắc Sài Gòn” hay không, ám chỉ việc di tản vội vàng khỏi Việt Nam khi thành phố Sài Gòn thất thủ.
“Không,” Blinken nói. “Hãy nhớ rằng, đây không phải là Sài Gòn. Chúng ta đến Afghanistan cách đây 20 năm với một nhiệm vụ, và nhiệm vụ đó là đối phó với những kẻ đã tấn công ta vào ngày 11/9 và chúng ta đã thành công trong nhiệm vụ đó.”
“Mục tiêu mà chúng ta đặt ra: đưa những kẻ đã tấn công ra trước công lý, đảm bảo rằng họ không thể tấn công một lần nữa từ Afghanistan – chúng ta đã thành công trong nhiệm vụ đó. Đồng thời, ở lại Afghanistan thêm một, năm, 10 năm nữa không phải là lợi ích quốc gia.”
“Người Anh đã ở đó rất lâu trong thế kỷ 19, người Nga ở đó rất lâu trong thế kỷ 20. Giờ đây, chúng ta đã ở đó lâu gấp đôi so với người Nga, và lợi ích quốc gia như thế nào, tôi không rõ.”
“Tôi nghĩ rằng hầu hết các đối thủ cạnh tranh chiến lược của chúng ta trên toàn thế giới sẽ mong ta ở lại Afghanistan thêm một năm, năm năm, 10 năm nữa, dành hết nguồn lực cho nội chiến tại đó.”
Mỹ ‘ở lại quá lâu’
Chuck Hagel, từng là Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ tại bang Nebraska từ năm 1997 đến năm 2009 và là Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ từ năm 2013 đến năm 2015 trong chính quyền Obama.
Hagel từng tham chiến tại Việt Nam từ 1967 tới 1968.
Nói với trang USA Today ngày 15/8, ông so sánh Afghanistan với Việt Nam.
“Tôi đã tham gia một trong những cuộc chiến đó ở Việt Nam. Chúng tôi đã ở lại đó quá lâu. Và chúng tôi đã ở lại Afghanistan quá lâu. Chúng ta chỉ làm hộ mọi thứ, tiếp quản cơ cấu kinh tế của họ, an ninh và quân sự của họ.”
Hagel ủng hộ quyết định rút khỏi Afghanistan của Tổng thống Joe Biden nhưng thừa nhận thảm họa nhân đạo có thể xảy ra dưới sự cai trị của Taliban.
“Có rất nhiều hậu quả, hậu quả không công bằng, và rất nhiều người sẽ mất mạng và bị đau vì điều này. Nhưng tôi không thấy cách nào khác. Mọi chuyện sẽ không khá hơn trong một năm, hai năm hay ba năm. Đó là một trong những tình huống khó khăn, khủng khiếp, không công bằng.”
‘Quá dễ’
Viết trên The Diplomat ngày 16/8, Luke Hunt cho rằng có những điều khác so với Việt Nam.
“Đáng chú ý là Bắc Việt sợ Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và viễn cảnh ném bom trở lại nếu họ vượt vĩ tuyến 17 vào miền Nam Việt Nam vi phạm hiệp định hòa bình đạt được năm 1973.
“Watergate đã thay đổi điều đó. Khi Nixon phải từ chức, Bắc Việt Nam đã được khuyến khích và đánh cược rằng một chính quyền nhu nhược, và sau đó là một tổng thống mới Gerald Ford, sẽ bỏ rơi đồng minh của họ ở miền Nam Việt Nam một khi xe tăng cộng sản vượt qua biên giới.
“Hà Nội đã có hai năm để chuẩn bị và phía nam đã sụp đổ.”
“Giống như những người cộng sản Bắc Việt Nam, Taliban không bao giờ có ý định tôn trọng thỏa thuận hòa bình được ký kết vào năm ngoái với người tiền nhiệm của Biden là Donald Trump.
“Nhưng không giống như những người cộng sản, Taliban không hề sợ hãi người Mỹ, những người chỉ muốn bỏ đi. Họ đã phát động một cuộc tấn công được lên kế hoạch tốt, được trang bị đầy đủ và đến Chủ nhật, mục tiêu của họ đã được chứng minh là quá dễ dàng.”
Mỹ ‘quên bài học Việt Nam’
Đăng trên Washington Post ngày 16/8, chuyên gia về chiến tranh Việt Nam, Andrew Wiest, chỉ ra Hoa Kỳ đã lãng quên bài học từ Việt Nam.
Andrew Wiest là tác giả sách “Vietnam’s Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN.”
“Đến năm 1960, Hoa Kỳ quan tâm thành lập một quân đội Nam Việt Nam là một bản sao nhỏ hơn của chính họ – một quân đội dựa trên việc sử dụng hỏa lực lớn và nguồn cung cấp vô tận. Nói tóm lại, đó sẽ là quân đội của một quốc gia giàu có.
“Đó là giải pháp đơn giản và tức thời cho mối đe dọa mà hầu hết người Mỹ đánh giá thấp. Kết quả là Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã chiến thắng trong các trận chiến nhờ sức mạnh của hỏa lực khổng lồ do Hoa Kỳ cung cấp. Nhưng họ không bao giờ liên kết đủ chặt chẽ với dân tộc hay quốc gia của mình, và không bền vững.
“Đó là kết quả của việc Hoa Kỳ không tập trung vào việc tạo ra sự bền vững ở miền Nam Việt Nam. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo quân đội Hoa Kỳ tập trung hạn chế vào thành công ngay lập tức trên chiến trường.
“Một sai sót chiến lược chết người là cho rằng chiến thắng trong các trận đánh, từ Thung lũng Ia Drang năm 1965 đến Tết Mậu Thân năm 1968, đến cuộc Tổng tấn công năm 1972, đồng nghĩa sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến.”
Andrew Wiest kết luận:
“Bài học của Việt Nam – và Afghanistan – là Hoa Kỳ không thể giành chiến thắng giùm các quốc gia có chính phủ yếu kém, phải chống chọi với bất ổn bên trong và các mối đe dọa từ bên ngoài.
“Nếu không có chiến tranh tổng lực – bất cần thương vong dân sự – thì chiến thắng đòi hỏi phải xây dựng các quân đội bản địa có thể tồn tại mà không cần Hoa Kỳ để phục vụ các chính phủ xứng đáng với sự hy sinh của người dân.
“Liệu Hoa Kỳ có thể nhảy dù vào và xây dựng các quân đội và chính phủ như vậy hay không là một câu hỏi mở, nhưng có một điều chắc chắn: Ít nhất, làm như vậy sẽ yêu cầu các chính trị gia Hoa Kỳ hiểu rõ hơn và sau đó giải thích sự cần thiết và lý do cho một nỗ lực quân sự kéo dài. Rốt cuộc, có bao nhiêu người Mỹ có thể đưa ra lời giải thích cho lý do tại sao Hoa Kỳ lẽ ra phải ở lại Afghanistan?”
Việt Nam – Afghanistan: Giống và khác
Lionel Barber từng là tổng biên tập báo Financial Times từ 2005 tới 2020.
Viết trên Nikkei Asia ngày 16/8, ông vạch ra những điểm giống và khác của diễn tiến chiến tranh Việt Nam 1975 và Afghanistan 2021.
Giống như tại Việt Nam, ông nói, can thiệp quân sự của Hoa Kỳ đã “kết thúc bằng một thất bại nhục nhã do các mục tiêu chiến tranh xung khắc nhau, niềm tin đặt sai chỗ vào việc xây dựng quốc gia và một niềm tin ngây thơ vào những lời hứa được đưa ra trên bàn đàm phán của một đối thủ quân sự đang thắng thế”.
Cũng giống như 1975, lần này, “việc từ bỏ các đồng minh một thời có nguy cơ làm tổn hại nghiêm trọng đến vị thế toàn cầu của Mỹ, làm suy yếu các liên minh và làm Trung Quốc và Nga thêm tự tin”.
Nhưng Lionel Barber nói có những điểm khác biệt quan trọng giữa việc Hoa Kỳ chiếm đóng Việt Nam và cuộc phiêu lưu sai lầm của Hoa Kỳ ở Afghanistan.
“Thứ nhất, bối cảnh trong nước. Vào cao điểm của cuộc chiến, Mỹ đã triển khai 500.000 quân tại Việt Nam, gấp 5 lần so với thời kỳ cao điểm có mặt ở Afghanistan. Khoảng 58.000 lính Mỹ đã chết, so với khoảng 2.300 người ở Afghanistan và hơn 20.000 người bị thương.”
Hiện nay, tại Mỹ không có phong trào phản chiến vì Afghanistan, trái ngược trước đây.
Hình ảnh một máy bay trực thăng quân sự của Mỹ đang bay gần đại sứ quán Mỹ ở Kabul vào ngày 15/8/2021.
Hình ảnh một máy bay trực thăng quân sự của Mỹ đang bay gần đại sứ quán Mỹ ở Kabul vào ngày 15/8/2021.
Lionel Barber nói chia rẽ tại Hoa Kỳ ngày nay có những lý do khác thập niên 1970.
“Nước Mỹ thời đó đang phải trải qua một cuộc khủng hoảng lan tỏa về quyền lực được thể hiện qua vụ bê bối Watergate khiến Tổng thống Richard Nixon phải từ chức. Ngày nay, người Mỹ đang phải chịu đựng nhiều hơn sự mệt mỏi từ ‘các cuộc chiến tranh mãi mãi’.”
Tác giả cho rằng tuy chi phí cho cuộc can thiệp của Afghanistan là cao – 2 nghìn tỷ đôla trong 20 năm – nhưng gánh nặng được chia sẻ bởi các đồng minh NATO, dẫn đầu là Anh (một nước vắng mặt trong cuộc xung đột Việt Nam).
Can thiệp tại Afghanistan, theo tác giả, dù sao cũng đã giúp giáo dục thế hệ phụ nữ Afghanistan và xây dựng tầng lớp trung lưu non trẻ ở một đất nước xa xôi, đa dạng về sắc tộc và có lịch sử bài ngoại. Tất cả những lợi ích này có nguy cơ bị Taliban nghiền nát.
Nhìn về trước, tác giả ngụ ý chiến tranh Việt Nam kết thúc mà không đem lại thiệt hại lớn cho khu vực, nhưng chiến thắng của Taliban liệu có đem lại thảm họa quốc tế hay không.
Ông viết: “Sau khi cộng sản tiếp quản Việt Nam, “lý thuyết domino” được ca tụng rất nhiều đã không bao giờ xảy ra. Ngoài Campuchia và Lào, Đông Nam Á không chìm trong thủy triều đỏ. Trên thực tế, Việt Nam đã tham gia một cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc vào năm 1979 và sau đó đã khôi phục quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ.”
“Taliban sẽ không đem lại kết quả hiền lành như vậy. Họ đã từng chứa chấp những kẻ khủng bố Al-Qaeda chịu trách nhiệm cho cuộc tấn công đẫm máu nhất vào lãnh thổ Hoa Kỳ.”
Chính phủ Afghanistan ‘tệ hơn Nam Việt Nam’
Tạp chí The Economist, ngày 15/8, đăng bài bình luận, có đoạn so sánh rằng chiến thắng của Taliban là quá chóng vánh khi nhớ lại Nam Việt Nam năm 1975.
“Làm thế nào mà một chính phủ với 350.000 binh sĩ, được huấn luyện và trang bị bởi những đội quân tốt nhất trên thế giới, lại sụp đổ nhanh chóng như vậy?”
“Năm 1975, quân đội miền Bắc Việt Nam, được sự hậu thuẫn của một siêu cường, vẫn phải mất nhiều tháng để tiến qua miền Nam Việt Nam, nơi chiến đấu kiên cường để giành giật lãnh thổ.”
“Taliban, được cho là với số lượng không quá 200.000 binh sĩ, được trang bị phần lớn bằng thiết bị mà họ thu giữ được từ kẻ thù, đã chiếm tất cả các trung tâm đô thị của Afghanistan trong vòng chưa đầy một tuần, nhìn chung không có nhiều sự kháng cự.”
“Câu trả lời dường như là họ thiếu sức mạnh, họ được bù đắp ở khối óc, sự quyết tâm và sự khôn ngoan trong chính trị.”
Thỏa thuận ‘hòa bình’ gợi nhắc Hiệp định Paris 1973
Quyết định rút quân đội Mỹ ra khỏi Afghanistan là một phần của thỏa thuận mà cựu Tổng thống Donald Trump đã đạt được với Taliban vào tháng 2 năm 2020.
Theo thỏa thuận đó, Mỹ đồng ý rút toàn bộ lực lượng của mình. Đổi lại, Taliban hứa sẽ cắt đứt quan hệ với Al-Qaeda và chấm dứt các cuộc tấn công nhằm vào lực lượng Mỹ.
Chính quyền Donald Trump đã bắt đầu giảm bớt lực lượng Hoa Kỳ và khoảng 2.500 binh sĩ Hoa Kỳ còn ở lại vào thời điểm ông ra đi đầu năm 2021.
Khi Joe Biden nhậm chức, ông lên kế hoạch chấm dứt sự can dự của Hoa Kỳ vào cuộc chiến nhưng trì hoãn việc rút quân.
Ban đầu, Biden cho biết ông sẽ rút toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ trước ngày 11 tháng 9, kỷ niệm 20 năm ngày 11/9. Sau đó, ông đổi ngày rút quân thành ngày 31 tháng 8.
Trong một phỏng vấn ngày 9/8, Tiến sĩ Rani D. Mullen, chuyên về vùng Nam Á, chỉ ra điểm tương đồng của thỏa thuận 2020 và hiệp định Paris về chiến tranh Việt Nam năm 1973.
“Không có gì lạ khi nhiều nhà phân tích Afghanistan đã so sánh thỏa thuận năm 2020 với Taliban với thỏa thuận hòa bình năm 1973 mà Hoa Kỳ đã thực hiện với lực lượng Cộng sản Bắc Việt Nam. Thỏa thuận hòa bình năm 1973 giống như thỏa thuận năm 2020 với Taliban, dẫn đến việc Tổng thống Nixon tuyên bố rút toàn bộ quân đội Hoa Kỳ khỏi Việt Nam.
“Và cũng giống như các cuộc đàm phán của Hoa Kỳ với Taliban, các cuộc đàm phán năm 1973 đã bỏ qua các đối tác của Mỹ. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi nhiều người Afghanistan và quân nhân Hoa Kỳ từng tham chiến ở Afghanistan cảm thấy bị phản bội và đau lòng. Đây không phải là một thỏa thuận danh dự. Và như bất kỳ người có lý trí nào cũng đoán ra, Taliban đã không tôn trọng thỏa thuận.”
Số phận người di tản
Amanda C. Demmer là tác giả sách “After Saigon’s Fall: Refugees and US-Vietnamese Relations, 1975-2000.”
Viết trên Washington Post ngày 16/8, bà đặt câu hỏi những người cộng tác với Mỹ tại Afghanistan sẽ ra sao.
Bà nhắc lại: “Khoảng 130.000 người Nam Việt Nam di tản cùng với nhân viên Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 1975, và 20 năm sau, hơn 1 triệu người đã tái định cư tại Hoa Kỳ, chưa kể hàng trăm ngàn người Lào và Campuchia.”
Bà cho biết thời điểm 1975 nhiều người Mỹ không thích đón nhận người di tản.
“Sự phản đối gay gắt đối với việc thu nhận người Nam Việt Nam đã có từ nhiều nơi. Mệt mỏi về chiến tranh, kinh tế khủng hoảng, phân biệt chủng tộc và xu hướng coi người Việt Nam là kẻ thù hơn là đồng minh, tất cả đều tạo thêm kêu gọi chỉ sơ tán những người Mỹ cuối cùng.”
“Tuy nhiên, bất chấp những trở ngại này, 130.000 người Việt Nam đã di tản cùng với nhân viên Mỹ vào tháng 4 năm 1975.”
“Tính tới năm 1995, tổng số người di cư do các cuộc xung đột và sau đó đã vượt quá 1,4 triệu người. Chỉ hơn 63% trong số những người di cư này, tương đương 822.977 người, đã đến Hoa Kỳ.”
“Ngoài 130.000 người đã di tản cùng với Hoa Kỳ vào năm 1975 và hơn 822.000 người di cư bổ sung, Hoa Kỳ cũng tiếp nhận một nửa triệu người khác trực tiếp từ Việt Nam thông qua Chương trình ODP.”
Ý kiến hai tờ báo Trung Quốc và Mỹ
Báo Trung Quốc Global Times hôm 15/8 ngay lập tức có xã luận mang tính chế nhạo Hoa Kỳ bại trận ở Afghanistan.
“Một quốc gia hùng mạnh như Mỹ không thể đánh bại Taliban, lực lượng hầu như không nhận được viện trợ từ bên ngoài, kể cả trong 20 năm. Trận thua này của Mỹ là một minh chứng rõ ràng hơn về sự bất lực của Mỹ so với chiến tranh Việt Nam – Mỹ đúng là “hổ giấy”. Ở một góc độ khác, thất bại của Mỹ thậm chí còn nhục nhã hơn cả Liên Xô ở Afghanistan trong những năm 1980.”
Xã luận của báo này nói:
“Trung Quốc sẽ không bao giờ nhảy vào cái bẫy mà dư luận phương Tây dựng lên, đặc biệt là đối với Trung Quốc. Cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ đã thất bại. Chính Mỹ và phương Tây phải chịu thách thức lớn nhất về tình hình đang thay đổi ở Afghanistan.
“Trung Quốc đang ở một vị trí tương đối thuận lợi. Trung Quốc không muốn lấp đầy khoảng trống mà Mỹ đã bỏ lại ở Afghanistan. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác luôn là định hướng cho chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ đóng một vai trò xây dựng trong việc giúp Afghanistan đạt được hòa bình và tham gia vào công cuộc tái thiết. Thiện chí chiến lược và sự ổn định chính sách của Trung Quốc sẽ đảm bảo rằng Trung Quốc luôn giữ thế chủ động trong tình hình Afghanistan.”
Trong khi đó, báo Mỹ New York Times ngày 15/8 cũng đăng xã luận thể hiện quan điểm của báo.
“Chính quyền Biden đã đúng khi kết thúc cuộc chiến. Tuy nhiên, không cần thiết phải kết thúc trong sự hỗn loạn như vậy, với quá ít suy nghĩ cho tất cả những người đã hy sinh rất nhiều với hy vọng về một Afghanistan tốt đẹp hơn.”
“Lầu Năm Góc và Quốc hội Hoa Kỳ phải chia sẻ trách nhiệm về sự thất bại này, cho các báo cáo tiến bộ màu hồng thường công bố.”
“Trách nhiệm thuộc về cả hai đảng. Tổng thống George W. Bush phát động chiến tranh chỉ để chuyển trọng tâm sang Iraq trước khi đạt được bất kỳ sự ổn định nào. Tổng thống Barack Obama tìm cách rút quân Mỹ nhưng thay vào đó, tăng quân. Tổng thống Donald Trump đã ký một thỏa thuận hòa bình với Taliban vào năm 2020 để rút quân hoàn toàn vào tháng 5 năm ngoái.”
“Chiến tranh cần kết thúc. Nhưng chính quyền Biden có thể và lẽ ra phải quan tâm nhiều hơn đến việc bảo vệ những người liều lĩnh mọi thứ để theo đuổi một tương lai khác, cho dù những giấc mơ đó được chứng minh là viển vông.”