Chủng Delta đang hoành hành toàn cầu có thể giảm độc lực theo thời gian, nhưng vẫn tồn tại nguy cơ xuất hiện biến chủng khác nguy hiểm hơn.
Phần lớn chuyên gia hiện nay nhất trí rằng nCoV, virus gây ra đại dịch đã khiến hơn 4,3 triệu người chết trên toàn cầu, sẽ tiếp tục tồn tại trong những năm tới. Tuy nhiên, không có cách để biết chính xác virus sẽ tiến hóa như thế nào và sẽ có thêm biến chủng gì xuất hiện. Trên thực tế, không phải tất cả biến chủng đều nguy hiểm hoặc đáng lo ngại hơn.
“Các biến chủng nCoV chắc chắn sẽ tiếp tục xuất hiện, nhưng không phải biến chủng nào cũng tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng. Quan trọng là phải theo dõi và đánh giá những biến chủng nổi bật, bởi một số có thể dẫn đến rủi ro gia tăng”, Yvonne Su, trợ lý giáo sư về bệnh truyền nhiễm tại Trường Y Duke-NUS của Singapore, cho biết.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đến nay đã xác định 4 biến chủng là “đáng lo ngại”, trong đó có Delta, với khả năng lây nhiễm cao gấp đôi chủng ban đầu tại thành phố Vũ Hán của Trung Quốc, nơi đại dịch khởi phát. Delta hiện là chủng trội trên toàn thế giới, đã lây lan tại ít nhất 135 quốc gia, vùng lãnh thổ kể từ khi được phát hiện lần đầu ở Ấn Độ hồi tháng 10/2020.
Tốc độ truyền nhiễm nhanh chóng của chủng Delta khiến giới chức trở nên thận trọng khi nới lỏng các biện pháp hạn chế, đặc biệt tại một số nơi thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương như Trung Quốc, Australia và New Zealand, vốn chủ yếu dựa vào nỗ lực dập dịch và kiểm soát biên giới chặt chẽ.
WHO cũng đưa 4 biến chủng nCoV khác vào danh sách “đáng quan tâm”, dựa trên “những thay đổi về gene đã hoặc sẽ ảnh hưởng đến các đặc tính của virus”, bao gồm khả năng lây nhiễm, mức độ nghiêm trọng và khả năng kháng vaccine.
Có bằng chứng cho thấy so với chủng virus ở Vũ Hán, biến chủng Delta dễ lây lan hơn trong số những người đã được tiêm vaccine Covid-19. Tuy nhiên, chưa có biến chủng nào được chứng minh có khả năng làm mất hiệu quả của vaccine trong việc ngăn bệnh trở nặng và tử vong.
Tại Anh, quốc gia đã tiêm chủng đầy đủ cho khoảng 75% dân số trên 18 tuổi, số ca nhập viện và tử vong đã giảm so với mức đỉnh điểm, dù vài tuần gần đây vẫn ghi nhận hàng chục nghìn ca nhiễm mới mỗi ngày. Theo dữ liệu của Cơ quan Y tế Công cộng Anh, 512 người đã tiêm đủ hai liều vaccine phải nhập viện từ ngày 19/7 đến 2/8, trong khi số ca nhập viện trung bình hàng ngày hồi tháng một là gần 39.000.
Một số chuyên gia dự đoán nCoV có thể trở nên bớt nguy hiểm hơn theo thời gian, dựa trên giả thuyết về sự đối nghịch giữa độc lực và tính lây nhiễm. Theo thuyết này, nếu độc lực của virus ngày càng tăng thì khả năng lây nhiễm sẽ suy giảm, bởi việc giết chết vật chủ sẽ khiến mầm bệnh khó lây lan rộng hơn.
Trong khi đó, theo thời gian, hầu hết virus sẽ dần tiến hóa theo hướng ngày càng có lợi, đồng nghĩa với không để đánh mất vật chủ, theo Polly Roy, giáo sư virus học tại Trường Vệ sinh và Y tế nhiệt đới London của Anh.
“Dù không thể đoán trước mốc thời gian, hầu hết đại dịch trong quá khứ đều thoái trào sau vài năm. Phần lớn biến chủng sẽ không ảnh hưởng quá lớn đến các vaccine hiện nay và vẫn được kiểm soát nhờ tiêm chủng. Vì vậy, chúng ta không có lý do gì để hoảng sợ. Các đột biến khá tinh vi, nhưng không quá nghiêm trọng, nên những điểm cơ bản của virus không thay đổi. Chúng vẫn lây nhiễm vào những tế bào đó và gây ra cùng loại bệnh”, Roy phân tích.
Một số nhà khoa học nhìn thấy các manh mối về quỹ đạo tiềm năng của nCoV dựa trên quá trình tiến hóa của OC43, một trong những loại virus corona gây cảm lạnh thông thường. Theo nghiên cứu tại Đại học Leuven của Bỉ năm ngoái, thời điểm OC43 truyền từ gia súc sang người trùng với giai đoạn đại dịch cúm Nga 1889-1890, cho thấy virus này có thể là nguyên nhân gây ra dịch bệnh toàn cầu khiến khoảng 1 triệu người chết.
“Có khả năng khi virus trở nên dễ lây nhiễm hơn, mức độ nguy hiểm sẽ giảm bớt”, Lawrence Young, nhà virus học tại Trường Y Warwick của Anh, nhận định. “Ban đầu, khi virus vừa truyền từ động vật sang người, rất nhiều trường hợp đổ bệnh và tử vong. Nhưng sau khi lây lan và đột biến theo thời gian, virus ít gây bệnh hơn. Virus OC43 gây cảm lạnh thông thường có thể đã tiến hóa như vậy”.
Young cho rằng mặc dù thế giới đang trong giai đoạn “dễ tổn thương”, việc hoảng loạn mỗi khi xuất hiện biến chủng mới không giúp ích gì, bởi xã hội cuối cùng sẽ phải học cách sống chung với nCoV.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia khác tỏ ra lo ngại hơn về mối đe dọa từ các biến chủng, đặc biệt là nguy cơ xuất hiện một biến chủng có khả năng kháng những vaccine hiện nay. Theo cuộc khảo sát 77 nhà dịch tễ học của Liên minh Vaccine cho Mọi người hồi tháng 3, 2/3 số người được hỏi tin rằng nCoV sẽ đột biến đến mức các vaccine thế hệ đầu tiên không còn hiệu quả trong vòng một năm hoặc ngắn hơn.
“Đơn giản là virus chỉ quan tâm đến khả năng tồn tại và lây lan. Chúng không đoái hoài tới độc lực, miễn là có thể lây lan một cách hiệu quả”, Nikolaus Osterrieder, chuyên gia thú y và khoa học đời sống tại Đại học Thành phố Hong Kong, nêu quan điểm, thêm rằng kinh nghiệm trước đây cho thấy các biến chủng mới sẽ dễ lây lan hơn và kháng vaccine.
Tuy nhiên, Osterrieder đồng ý rằng xã hội vẫn cần học cách sống chung với virus, bất chấp nguy cơ từ các biến chủng mới. “Chúng ta cần chuyển sự chú ý từ số ca nhiễm sang gánh nặng y tế mà virus gây ra”, chuyên gia cho hay.
Trong khi đó, giáo sư Su thừa nhận không có nhiều bằng chứng cho thấy nCoV ngày càng bớt độc lực theo thời gian. Việc tác động của virus giảm đối với những trường hợp nhất định có thể do hệ miễn dịch đã được tăng cường sau khi từng nhiễm hoặc đã được tiêm chủng. Vì vậy, mấu chốt để quay lại trạng thái bình thường là tỷ lệ tiêm chủng cao.
“Tỷ lệ tiêm chủng cần gia tăng nếu chúng ta muốn sống chung với virus”, Su kết luận.